↑ Điêu tiễu (雕/điêu: diều hâu; 剿/tiễu: hớt, chặn lấy) là tên gọi khác của mưu kế "cầm tặc cầm vương", thường được dùng bởi tướng lãnh quan quân vào trung kỳ đời Minh, trong hoạt động trấn áp khởi nghĩa nông dân. Đúc kết từ kinh nghiệm thực tế, tướng lãnh đời Minh mô phỏng hành vi bắt mồi của loài diều hâu: nắm rõ tình báo, chọn đúng thời cơ, tấn công thần tốc, chuẩn xác nhằm vào đầu não địch, một đòn tất thắng; tương tự mưu kế "cầm tặc cầm vương". Đây là biện pháp gây ra ít thương vong nhất cho cả hai bên tham chiến, đối với tình hình thực tế vào trung kỳ đời Minh lại có tác dụng nhanh chóng phân rã đội ngũ nghĩa quân. Ở đây Lăng Vân Dực muốn mở toang các lớp phòng ngự bên ngoài của khởi nghĩa ngươi Dao, trước khi ra đòn quyết định để kết thúc cuộc chiến
↑ Thiêm chú (添注), gọi đầy đủ là thiêm nhập (添入, nghĩa là thêm vào) chú nghĩ (注: ghi chép, 拟: nghĩ định, nghĩa là ghi lại tên họ, chờ thượng cấp suy nghĩ rồi quyết định). Thiêm chú là một hình thức chờ bổ nhiệm, tuy nhiên thực tế vào đời Minh lại là bổ nhiệm bất chấp vị trí đó không hề khuyết, không có thực danh nhưng lại có thực quyền
↑ Thạch Tinh là người cầm đầu phe chủ hòa ở triều đình nhà Minh trong cuộc đàm giữa 2 nước Minh – Nhật. Không rõ tại sao Trần Lân lại hối lộ một nhân vật có vai trò đối lập với mình như vậy!?
↑ Sử Trung Quốc gọi Shimazu Yoshihiro là Thạch Mạn Tử, sử Triều Tiên gọi là Thẩm An Đốn hay Thẩm An Đốn Ngô, sử Nhật cho biết liên quân Minh – Triều Tiên khiếp sợ Shimazu Yoshihiro, gọi ông ta là Quỷ Thạch Mạn Tử. Đảo Tân là âm dịch của Shimazu (しまづ), còn Thạch Mạn Tử/ Thẩm An Đốn là âm đọc
↑ Trên thực tế, Konishi Yukinaga, Shimazu Yoshihiro và chủ lực của quân Nhật sau khi chạy thoát khỏi trận Lộ Lương thì tập kết ở Phủ Sơn (Pusan), từ đó vượt biển quay về Nhật Bản, rút lui an toàn khỏi Triều Tiên. Sử liệu của Triều Tiên và Nhật Bản đều không nhắc đến trận đánh kể trên; sử liệu của Trung Quốc viết một cách hàm hồ, không rõ quân số hay tướng lãnh của cánh quân Nhật này. Nhưng ghi nhận công trạng của Trần Lân và chư tướng nhà Minh lại là thật
↑ Nay là trấn Thiên Kiều, huyện Thi Bỉnh, châu tự trị dân tộc Miêu và dân tộc Đồng Kiềm Đông Nam, Quý Châu
1 2 Sử cũ cho biết Tứ Bài Bảo ở Giang Ngoại (ý nói bên phải Trường Giang) và Thất Bài Bảo ở Giang Nội (ý nói bên trái) đều là khu vực sanh hoạt của các bộ lạc người dân tộc thiểu số (chủ yếu là Cửu Cổ Miêu) – vốn là hậu duệ của những cuộc hôn phối dị chủng với binh sĩ người Hán ở các triều đại trước. Những bộ lạc dị chủng này chẳng những giữ được ngôn ngữ và tập tục xưa hơn hẳn so với các bộ lạc trực hệ, mà còn nổi tiếng về tính cách hung hãn và hiếu chiến, nhiều năm phản kháng, gây lắm kinh sợ cho quan quân
↑ Thiên Nguyên tuần phủ (偏沅巡抚), gọi đầy đủ là Tuần phủ Thiên Nguyên địa phương Tán lý quân vụ, là chức vụ được nhà Minh đặt ra nhằm phục vụ cho chiến dịch Bình Bá, tiếp tục được sử dụng cho đến đời Ung Chánh nhà Thanh mới đổi làm Hồ Nam tuần phủ. Thiên Nguyên tức là Thiên Kiều và Nguyên Châu (nay là Chỉ Giang, Hồ Nam), những trọng trấn quân sự của 2 hành tỉnh Quý Châu, Hồ Quảng vào đời Minh
↑ Nay là huyện cấp thị Phúc Tuyền, châu tự trị dân tộc Bố Y và dân tộc Miêu Kiềm Nam, Quý Châu